Nghiên cứu “Nhận thức, thái độ và thực hành của sinh viên đại học Thái Nguyên về sức khoẻ sinh sản và tình dục” nhằm đánh giá nhận thức, thái độ và các thực hành về tình dục và tình dục an toàn của nam và nữ sinh viên tại bốn trường và một khoa trực thuộc Đại học Thái Nguyên do Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong Phát triển (CGFED) thực hiện với sự hỗ trợ kỹ thuật của Hội hữu nghị Đan Mạch – Việt Nam (DVA) từ tháng 5-9/2019.
Với 3.860 sinh viên tham gia khảo sát online, chiếm khoảng 19,9% tổng số sinh viên của 04 trường đại học thành viên và Khoa Quốc Tế (19.433), kết quả khảo sát cho thấy sự chưa đầy đủ trong nhận thức của sinh viên Đại học Thái Nguyên (ĐHTN) về Sức khoẻ sinh sản (SKSS), sức khoẻ tình dục (SKTD). Cụ thể:
- Nhận thức của sinh viên về các khái niệm, thuật ngữ về tình dục, đa dạng tính dục còn hạn chế:
- Chỉ có 31% tổng số sinh viên trả lời đúng câu hỏi “Theo bạn, SKSS là gì?”;
- Hầu hết sinh viên (86%) đồng nhất khái niệm tình dục với hành vi quan hệ tình dục;
- 97% sinh viên biết về tình dục khác giới, tỷ lệ nhận thức về các hình thức khác thấp hơn;
- Sinh viên biết đến xu hướng tình dục đồng tính, song tính nhưng lại không hiểu thuật ngữ “dị tính” là để chỉ sự hấp dẫn với người khác giới (chỉ 15.8% sinh viên biết về tình dục dị tính);
- Chỉ có 51% các bạn cho rằng, tình dục an toàn còn bao gồm “không để xảy ra mang thai ngoài ý muốn” với tỉ lệ lần lượt: năm 1: 55,3%, năm 2: 52,4%, năm 3: 49,6%, năm 4: 49,4%.
- Gần một nửa sinh viên được khảo sát không biết tới các BPTT hiện đại, như:thuốc diệt tinh trùng, miếng dán tránh thai, màng ngăn âm đạo. Biện pháp tránh thai được sinh viên có nghe nói đến nhiều nhất là vòng tránh thai (71.5%), nhưng thuốc diệt tinh trùng là lại biện pháp ít được các bạn biết tới nhất (51.8%). Sinh viên biết sử dụng bao cao su nam nhiều nhất nhưng sự tự tin trong việc sử dụng nó đúng cách lại ít nhất (90.4% so với 28.4%).
- Nhật thức của sinh viên ĐHTN về HIV/AIDS vẫn khá hạn chế. HIV/AIDS là bệnh lây truyền qua đường tình dục được sinh viên có khả năng kể ra nhiều nhất, tuy nhiên mới gần một nửa sinh viên hiểu được chính xác khái niệm HIV (46.9%) và các nguy cơ lây truyền qua các giao tiếp thông thường: 22% sinh viên cho rằng có nguy cơ cao và 47% cho rằng có nguy cơ thấp với hành vi ăn uống cùng người nhiễm HIV/AIDS; 20,4% cho có nguy cơ cao và 46,8% cho có nguy cơ thấp khi ở chung phòng với người nhiễm HIV, hay việc bắt tay vẫn có 6,1% nguy cơ cao và 20,9% cho là nguy cơ thấp.
Bên cạnh đó, tín hiệu đáng mừng là sinh viên ĐHTN có nhận thức tương đối tốt về các biện pháp phòng ngừa lây truyền HIV: 87,7% cho rằng phải sử dụng BCS trong QHTD; 78% nghĩ rằng phải khám bệnh định kỳ; đồng thời 77,7% cho rằng phải kiểm tra ngay khi có dấu hiệu bất thường; 74% nghĩ rằng chung thuỷ một vợ một chồng, một bạn tình và 64,4% cho rằng cần phải vệ sinh sạch sẽ cơ quan sinh dục trước và sau khi QHTD.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về giới tính, thành phần dân tộc, năm học của sinh viên trong nhận thức về SKSS, SKTD.
Được thực hiện trong khuôn khổ dự án thí điểm “Giáo dục sức khoẻ sinh sản và tình dục cho sinh viên Đại học Thái Nguyên”, các phát hiện và kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở để xây dựng chương trình giáo dục tình dục nhằm nâng cao kiến thức, thay đổi thái độ và hành vi đúng đắn cho sinh viên liên quan đến sức khỏe sinh sản và tình dục.